Các sửa đổi được đề xuất cho Quy định và Quy chế, Mục 6.14 - 28/6/96
Văn bản sau đây là đề xuất 6.14 hiện tại với các sửa đổi của Ủy viên Wasserman theo yêu cầu của Ủy ban tại phiên điều trần của ủy ban ngày 23 tháng 6 năm 1996 về Quy tắc 6.14. Các phần bổ sung của Ủy viên Wasserman vào văn bản đã được in nghiêng và in đậm để dễ nhận dạng. Xin lưu ý rằng những thay đổi do Ủy viên Wasserman thực hiện không thay đổi đáng kể ngôn ngữ đề xuất như đã trình bày tại Phiên điều trần công khai được tổ chức về vấn đề này vào ngày 23 tháng 6 năm 1996.
Ủy ban sẽ tiếp tục thảo luận về Quy tắc 6.14 tại cuộc họp tiếp theo của ủy ban, ngày 2 tháng 7 năm 1996 lúc 5:30 chiều, 25 Van Ness Ave, Phòng 70 ở Tầng dưới, theo mục VIII, Công việc cũ. Có thể đưa ra ý kiến trong bất kỳ thời gian nào trong các thời gian Bình luận công khai hoặc có thể nộp bằng văn bản trước hoặc tại cuộc họp.
Mục 6.14 Thỏa thuận trả thêm tiền thuê nhà khi thay đổi người thuê nhà
(Phần bổ sung được gạch chân; phần xóa trong dấu ngoặc kép)
[[(a) Người thuê nhà là bất kỳ người thuê nhà nào cư trú tại cơ sở với sự cho phép, chấp thuận, đồng ý thụ động hoặc theo thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng miệng với chủ nhà, tại bất kỳ thời điểm nào kể từ khi Sắc lệnh Thuê nhà được thông qua vào ngày 12 tháng 6 năm 1979. Sự chấp thuận hoặc cho phép của chủ nhà cho thuê cho người thuê ban đầu có thể được thể hiện rõ ràng, ngụ ý hoặc suy ra từ hành vi của các bên.]]
(a) Người thuê nhà là bất kỳ người nào cư trú tại cơ sở bất kỳ lúc nào kể từ khi Sắc lệnh tiền thuê nhà được thông qua vào ngày 16 tháng 6 năm 1979, đáp ứng bất kỳ tiêu chí nào sau đây:
(1) có thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng miệng với chủ nhà; hoặc
(2) có sự cho phép của chủ nhà; hoặc
(3) nếu hợp đồng cho thuê hoặc thỏa thuận cư trú khác có hiệu lực tại thời điểm đó không chứa giao ước bằng văn bản cấm cho thuê lại hoặc chuyển nhượng, thì người đó sẽ cư trú vĩnh viễn tại cơ sở đó với sự hiểu biết và đồng ý của chủ nhà; hoặc
(4) nếu hợp đồng cho thuê hoặc thỏa thuận cư trú khác có hiệu lực tại thời điểm đó có một giao ước bằng văn bản cấm cho thuê lại hoặc chuyển nhượng, thì đối với người mà chủ nhà đã từ bỏ việc thực thi giao ước đó. Đối với tiểu mục này, người thuê nhà hoặc người khác cố gắng khẳng định việc từ bỏ, phải chứng minh bằng bất kỳ lời nói hoặc hành vi nào rằng chủ nhà đã cố ý từ bỏ quyền thực thi bất kỳ giao ước nào như vậy, ngoại trừ việc chấp nhận tiền thuê nhà của chủ nhà sẽ không tự nó hoạt động như một sự từ bỏ trừ khi chủ sở hữu đã nhận được thông báo bằng văn bản từ người thuê nhà là một bên của giao ước bằng văn bản và sau đó đã chấp nhận tiền thuê nhà.
(b) Khi một trong những người thuê nhà theo định nghĩa ở trên cư trú tại đơn vị, người đồng thuê nhà hoặc người thuê nhà mới không tạo ra quyền thuê nhà mới cho mục đích của Sắc lệnh Thuê nhà hoặc thay đổi các điều khoản và điều kiện của quyền thuê nhà. Tuy nhiên, tiểu mục này không ngăn cản chủ nhà thực thi bất kỳ quyền nào mà anh ta hoặc cô ta có thể có theo giao ước bằng văn bản cấm cho thuê lại hoặc chuyển nhượng.
[[Ví dụ, "A" thuê căn hộ 1 vào năm 1983; "B" chuyển đến căn hộ 1 với A vào năm 1985. Chủ nhà biết được B sống trong căn hộ 1 với A ngay sau khi B chuyển đến vì B đã gọi cho chủ nhà để sửa chữa căn hộ. Khi A chuyển đi vào năm 1988, chủ nhà không được thay đổi các điều khoản và điều kiện của hợp đồng thuê hoặc coi căn hộ 1 là hợp đồng thuê mới vì A và B đáp ứng định nghĩa về người thuê như được mô tả trong tiểu mục (A) ở trên.]]
(c) Chủ nhà có thể đạt được thỏa thuận bằng văn bản hoặc gửi thông báo bằng văn bản cho tất cả người thuê nhà theo định nghĩa trong tiểu mục (a) ở trên rằng khi người thuê nhà cuối cùng đáp ứng định nghĩa sau rời khỏi cơ sở, một hợp đồng thuê nhà mới được tạo ra cho mục đích xác định tiền thuê theo Sắc lệnh Thuê nhà. Một bản sao đầy đủ hoặc bản trình bày lại hợp lý của Mục 6.14 sẽ được đính kèm hoặc đưa vào bất kỳ thỏa thuận hoặc thông báo bằng văn bản nào. Cả chủ nhà và người thuê nhà đều có nghĩa vụ riêng biệt và khác biệt là cung cấp một bản sao của bất kỳ thỏa thuận bằng văn bản nào như vậy cho bất kỳ người đồng thuê nhà mới nào. Việc chủ nhà không cung cấp một bản sao của thỏa thuận bằng văn bản hoặc thông báo bằng văn bản đó cho bất kỳ người đồng thuê nhà mới nào mà chủ nhà thực sự biết trong vòng 60 ngày kể từ ngày chủ nhà biết được sẽ được coi là bằng chứng về việc chủ nhà biết và đồng ý với người đồng thuê nhà đó hoặc từ bỏ bất kỳ giao ước nào chống lại việc cho thuê lại hoặc chuyển nhượng.
[[(d) Trong mọi trường hợp, người đồng thuê mới sẽ được coi là người thuê theo định nghĩa trong tiểu mục (a) ở trên trừ khi chủ nhà gửi cho người đồng thuê mới thông báo bằng văn bản rằng người đó không được coi là người thuê theo tiểu mục (a) ở trên, trong vòng 60 ngày kể từ ngày chủ nhà biết về sự hiện diện của người đồng thuê trong đơn vị. Chủ nhà có thể tuân thủ tiểu mục (c) và tiểu mục (d) này cùng một lúc.]]
(d) Đối với các Đơn vị bị ảnh hưởng bởi Đề xuất I, một người đồng thuê mới sẽ được coi là người thuê theo định nghĩa trong tiểu mục (a) ở trên trừ khi chủ nhà chưa chấp nhận người đồng thuê mới là người thuê theo luật hiện hành và chủ nhà gửi cho người đồng thuê mới thông báo bằng văn bản vào hoặc trước ngày 13 tháng 8 năm 1995 rằng người đó không được coi là người thuê theo tiểu mục (a) ở trên. Tiểu mục (e) này chỉ áp dụng cho các hợp đồng thuê bắt đầu trước ngày 15 tháng 2 năm 1995. Đối với các hợp đồng thuê bắt đầu vào hoặc sau ngày 14 tháng 2 năm 1995, các điều khoản của tiểu mục (a) sẽ được áp dụng. [[yêu cầu thông báo trước 60 ngày có trong tiểu mục (d) ở trên sẽ được áp dụng. Chủ nhà có thể tuân thủ tiểu mục (c) và tiểu mục (e) này cùng một lúc.]]
Trở lại
Quay lại Kho lưu trữ tin tức của Hội đồng cho thuê nhà San Francisco .